Phạm Đình Chương những con đường âm nhạc
Nhưng có nhiều người thì nghĩ khác. Như nhạc sĩ Anh Bằng, người đã phổ hàng
trăm bài thơ thì cho rằng thơ phổ nhạc là một nét đặc thù của văn nghệ Việt Nam. Trong khi
nói chuyện với tôi ông đã tỏ ra rất trân trọng những bài thơ phổ nhạc của nhạc
sĩ Phạm Đình Chương và cho rằng đó là một nhạc sĩ phổ thơ hya nhất của âm nhạc
Việt nam.
Riêng với tôi, nghe lại những bản nhạc phổ từ thơ của người ca sĩ chủ chốt của
ban hợp ca Thăng Long Hoài Bắc, tôi đã bị lôi cuốn vào một thế giới âm nhạc
tuyệt vời. Từ những bài thơ nổi tiếng, nhạc đã mở ra thành những thế giới riêng
và cất cao lên những cung bậc ngân nga trong tâm não. Thơ Quang Dũng (Đôi mắt
người Sơn Tây) như có phả vào trong nhạc Pham Đình Chương những nỗi niềm sầu xứ
riêng của một người yêu quê hương tha thiết. Thơ Thanh Tâm Tuyền (Lệ đá xanh)
những câu thơ tự do trúc trắc lại trở thành những cung bậc mượt mà và hình như
trong từng nốt nhạc từng lời ca được chọn lọc trong thơ có một điều gì sẻ chia
đồng cảm. Với thi ca, nhạc Phạm Đình Chương là bạn đồng hành.
Và mỗi khi buồn, những bản nhạc tình của Phạm Đình Chương đã làm tôi da diết
hơn nỗi đau và nhức buốt thêm nỗi nhớ. Tha thiết, lãng mạn, như nghe Nửa hồn
thương đau, nghe “Người đi qua đời tôi”, những lời và nhạc quyện vào nhau. Ngân
lên. Réo rắt.
Phạm Đình Chương, người nhạc sĩ tài hoa đã làm phong phú cho gia tài âm nhạc
Việt Nam.
So với các nhạc sĩ nổi tiếng khác số lượng sáng tác của ông không nhiều lắm
nhưng đã có rất nhiều ca khúc đã đi vào cõi bất tử. Nhạc của ông còn có tuổi
thọ hơn ông nhiều lần. Những ca khúc đã nổi tiếng đến nỗi thành quen thuộc
trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam.
Riêng với cá nhân tôi, mỗi lần nghe lại những bản nhạc như “Sáng Rừng” hay
trường ca “Hội Trùng Dương”, tôi lại bồi hồi nhớ đến những ngày xưa lúc mới lên
trung học. Ở ngôi trường mà trước đây là chỗ nuôi ngựa của quân đội Nhật sau
sửa chữa thành Trung Tâm Học Liệu, nơi chúng tôi đã học hát những bài này với
thầy Chung Quân ròng rã những năm đệ thất, đệ lục. Những bài hát đã tạo ấn
tượng rất mạnh cho tôi từ ngôn ngữ đến âm điệu. Những bài hát làm tôi yêu mến
hơn quê hương đất nước tôi. Tôi nhớ cả lớp tôi chia làm hai bè và những câu hát
cứ đuổi theo nhau như lượn sóng ào ạt cuồn cuộn: “… Sóng muôn triền tới sóng xô
về tới như muôn tình mới vươn sức người. Bừng giữa đời…” Chúng tôi cứ thế mà
hào hứng hát trong cái kích động vô cùng của chuyển khúc nhạc… Thầy Chung Quân,
tác giả của ca khúc nổi tiếng “Làng tôi“ thì không hết lời giảng giải với bọn
học trò chúng tôi những nét hay ý đẹp của những ca khúc này. Thành ra, tuy tôi
chưa gặp mặt bao giờ nhưng lại vô cùng quen thuộc khi nghe nhắc tới tên tuổi
của nhà nhạc sĩ Phạm Đình Chương…Hình như trong tiềm thức của tôi, đã có một
vóc dáng nhạc sĩ cực kỳ to lớn. Những lờica hằn trong tâm thức và một lúc nào,
có chất xúc tác, bùng vỡ cảm xúc như trôi theo suối, theo sông…
Rồi thời gian trôi, tôi lớn lên, vào đại học rồi đi lính, đi tù, rồi vượt biên,
rồi lưu lạc xứ người, mãi thời gian khoảng thập niên 80 tôi mới gặp lại ông. Và
hình như, cái vóc dáng ngày xưa mà tôi tưởng tượng dường như không sai biệt
mấy. Trong một buổi họp mặt văn nghệ ở quán Doanh Doanh của anh chị Thái Tú
Hạp, ông hát bản nhạc mới sáng tác phổ từ thơ Du Tử Lê “Đêm nhớ trăng Sài Gòn“
và bản “Hạt bụi nào bay qua “ từ thơ Thái Tú Hạp. Dáng ông cao gầy, nói chuyện
có duyên với giọng thật đặc biệt Bắc Kỳ Sơn Tây, mặc dù lúc đó hơi men đã ngấm.
Ông hát rất truyền cảm và tạo được những phút giây lắng đọng trước khi chấm dứt
làm người nghe ngưng một giây sững sờ trước khi vỗ tay vang dội… Trong tiếng
nhạc, có tâm sự tỏ bầy. Trong lời ca, có mênh mông những khung trời quá khứ…
Theo tài liệu của nhạc sĩ Phạm Thành là con ruột ông thì nhạc sĩ Phạm Đình
Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai. Quê nội ông ở Hà Nội và quê
ngoại ở Sơn Tây. Gia đình ông là một gia đình nghệ sĩ, thân phụ ông đánh đàn
tranh rất tuyệt trong khi thân mẫu ông chơi đàn bầu cũng rất hay. Thành ra nhạc
sĩ Lê Trọng Nguyễn, tác giả Nắng Chiều đã rất hữu lý khi phát biểu rằng nhạc
của Phạm Đình Chương đã biểu lộ được những tinh túy của âm điệu ngũ cung. Sống
trong một gia đình nghệ sĩ “nòi “ như vậy thì hấp thụ được những tinh hoa của
nguồn nhạc dân tộc tính là chuyện dĩ nhiên. .
Ông bắt đầu học nhạc lý từ khi còn thơ ấu. Lúc mười bẩy tuổi ông đã sáng tác
bản nhạc đầu tay “Ra đi khi trời vừa sáng“ với lời nhạc trong sáng nhịp điệu
vui tươi tới bây giờ vẫn còn nhiều người hát. Thí dụ như Đài phát thanh Little
Sài Gòn ở Orange County đã dùng làm bản nhạc khởi đầu chương trình “Chào bình
minh“ mỗi buổi sáng.
Thời kháng chiến chống Pháp sau năm 1945, cũng như những chàng trai Hà Nội yêu
nước, ông gia nhập vào các đoàn văn nghệ lưu động của Liên khu 4 và Liên khu 3.
Ông đi đến nhiều nơi: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
thiên... Thời kỳ này, ông sáng tác những bài hát kích động tinh thần yêu nước,
chấp nhận những khó khăn, có bóng dáng của chiến tranh nhưng không hận thù chém
giết. Như ca khúc “Được Mùa“ âm điệu vui tươi, chứa chan tình cảm với lòng tin
tưởng vào tương lai. Trong khi những bản nhạc cùng thời sáng tác như “Ngày Mùa“
của Văn Cao, “Gánh Lúa “ của Phạm Duy, hay “Dân Ca Lúa Vàng“ của Mặc Thy, thì
lời ca tiếng nhạc có bóng dáng của chém giết chiến tranh hơn.
Nhà văn Mai Thảo khi còn sinh tiền hay thường kể về những ngày tháng đầy hào
hứng của tuổi trẻ của những thanh niên lớp tuổi ông và Phạm Đình Chương, vai
đeo bạc đà tay bút tay đàn rộn rã với sinh hoạt văn nghệ thời kỳ toàn dân chống
giặc. Nhà văn Tạ Tỵ trong hồi ký viết về các văn nghệ sĩ mà ông quen biết cũng
nhắc đến quán cà phê của gia đình Ban Hợp Ca Thăng Long thuở ấy. Vừa lưu diễn
vừa sáng tác, tay đàn tay bút, từ đồng nội đến núi rừng, sinh lực tuổi trẻ và tâm
tình yêu nước đã thể hiện trong từng ca khúc của Phạm Đình Chương.
Sau chính sách Cải cách Ruộng Đất ,ông và gia đình trở về thành và vào Sài Gòn sinh sống. Ởđây, ông cùng với anh ruột là nhạc sĩ Hoài Trung, chị ruột là ca sĩ Thái Hằng,
anh rể là nhạc sĩ Phạm Duy, em ruột là ca sĩ Thái Thanh lập thành Ban Hợp ca
Thăng Long. Đôi khi còn tăng cường ca sĩ Khánh Ngọc. Ban hợp ca Thăng Long đã
hoạt động liên tục trong một thời gian dài. Có khi trình diễn ở Hà Nội thì đổi
tên là Ban Hợp Ca Gió Nam với sự góp mặt của nhạc sĩ Nam Tiến (tức Trần Văn
Trạch) Kỷ niệm những ngày lưu diễn này nhạc sĩ Trần Văn Trạch đã nhắc đến và
tâm sự nhiều lần trước khi qua đời và coi như một kỷ niệm đẹp trong đời ca hát
của người nghệ sĩ lão thành này.
Những ngày ở miền Nam
là những ngày sáng tác sung mãn của ông. ‘Ly rượu mừng” bài hát vui tươi tràn
dầy mộng ước, là lời chúc rất nhân bản đã trở thành một bài hát mở đầu cho
những buổi họp mặt của hầu hết mọi người dòng dã mấy chục năm về sau. Hay
“Tiếng dân chài”, theo lời kể của tác giả là một sáng tác từ cảm hứng trên bờ
sông Mã khi mục kích sinh hoạt của những người dân chài lưới.
Thời kỳ này Ban Hợp ca Thăng Long nổi tiếng đến nỗi bìa của giai phẩm xuân “Đời
Mới” của nhà báo kiêm chính khách Trần Văn Ân có hình ban Thăng Long có hai cô
Thái một cô Khánh (Thái Thanh, Thái Hằng, Khánh Ngọc) phải in thêm để có đủ số
lượng bán.
Là linh hồn của Ban Thăng Long, những sáng tác của ông đã góp phần làm rạng rỡ
những thành công vượt bực. Như Sáng Rừng, như Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng, như
Tiếng Dân Chài, như Bài Ca Tuổi Trẻ,
Như Anh Đi Chiến Dịch, như Ly Rượu Mừng, … Những bài hát đã thật quen thuộc đến
trở thành một phần đời sống của những người dân ở miền Nam Việt Nam.
Nhưng một gia sản to lớn cuả nhạc sĩ để lại cho âm nhạc Việt Nam là trường ca “Hội Trùng Dương”.
Theo Phạm Thành cho biết thì thời gian sáng tác để hoàn tất là bốn năm dòng dã.
Nhiều người đã xếp hạng “Hội Trùng Dương” ngang hàng với những “Trường Ca Sông
Lô“ của Văn Cao hay “ Hòn Vọng Phu“ của Lê Thương, những nỗi niềm và những khát
vọng của dân tộc được thể hiện. Sáng tác trong thời gian đất nước bị chia đôi,
ông muốn nói lên cái tâm tư Bắc Nam là một và những dòng sông rồi cũng xuôi về
biển Mẹ. Sông Hồng, với thao thiết âm thanh Quan Họ. Sông Hương, với đồng vọng
giọng hò mái đẩy xứ thần kinh. Sông Cửu Long, với tiếng dân ca mộc mạc. Tất cả,
trộn lẫn lại để thành tiếng hát đầy tình tự dân tộc và trong sáng. Thấp thoáng
trong nốt nhạc, lời ca là sự lạc quan của những người tin tưởng vào tương lai
của đất nước.
Năm 1967, ông nhận tổ chức và điều khiển phòng trà Đêm Mầu Hồng (cũng là tên
của một ca khúc mà ông phổ nhạc từ thơ của Thanh Tâm Tuyền). Những sáng tác nổi
danh của ông và sự trình diễn điêu luyện của Ban Hợp Ca Thăng Long đã biến
phòng trà này một chỗ nổi tiếng nhất và là nơi tụ tập của những nghệ sĩ hàng
đầu của đô thành Sài Gòn.
Trong nhạc Phạm Đình Chương, thi ca đóng một vai trò quan yếu. Hình như bắt
nguồn từ sự đồng cảm với thi sĩ, nhạc đã tháp cánh cho thơ vút cao. Những vần
thơ của Đinh Hùng, Hoàng Anh Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Quang Dũng, Trần
dạ Từ, … trước năm 1975 hay Du Tử Lê, Kim Tuấn, Thái Tú Hạp, … sau năm 1975 ở hải
ngoại đã thành những ca khúc có sức lôi cuốn mạnh mẽ và nói lên được tâm tư của
thời đại. Thơ, với chất lãng mạn sẵn có, hợp cùng âm điệu của nhạc để thành
những nhớ lại từ liên tưởng những cuộc tình, những phận người. Để rồi có sự
chia sẻø với suy nghĩ, vớiø ngôn ngữ, với thanh âm, đã mở hướng đi xa đến vời
vợi hơn những cửa ngõ này, những chân trời kia…
Nhạc sĩ Vũ Thành đã có lần nhận xét rằng phổ thơ như Phạm đình Chương từ bài
thơ “Tự Tình Dưới Hoa“ của Đinh Hùng thành “Mộng Dưới Hoa“ là việc hình thành
một “tuyệt tác đáng phục“. Nhạc sĩ khéo léo phổ toàn bộ bài thơ với một ngôn
ngữ óng mượt trữ tình và kỹ thuật chuyển âm tuyệt diệu. Nhất là, chất lãng mạn
được giữ nguyên nếu không nói là tăng thêm bội phần.
Tuyền không phải là việc dễ dàng. Thế mà, với Dạ Tâm Khúc, với Bài Ngợi Ca Tình
Yêu, với Đêm Mầu Hồng, cái ý thơ cảm được nhưng khó diễn tả bằng lời đã được
truyền cảm trọn vẹn. Thơ, đi gần tới hơn đối tượng và bằng nhịp điệu lôi cuốn
người nghe với nghệ thuật riêng của nhịp cầu âm điệu. Không biết thành công này
có phải bắt nguồn từ sự đồng cảm giữa thi sĩ và nhạc sĩ qua mối thâm giao lâu
đời chăng?
Biến cố tháng tư năm 1975 khiến ông phải làm nhân chứng cho một cuộc đổi đời.
Sống ở Saigòn những năm tháng nghẹt thở rồi sau cùng ông và gia đình vượt biển
năm 1979 rồi sang định cư ở xứ người. Đời sống thúc bách của sinh kế không làm
ông ngưng sáng tác.
Tâm sự một người lưu lạc chất ngất nỗi niềm khiến cho ông cảm thấy gần gũi với
những vần thơ của thi sĩ Du Tử Lê. Những bài thơ như “Khi tôi chết hãy mang tôi
ra biển”, ”Đêm, nhớ trăng Sài gòn“, hay “Quê hương là người đó“ được phổ nhạc
trong sự chia sẻ ấy. Quê hương mới đây mà đã cách biệt ngàn trùng. Những không
gian, thời gian đã xa mất hút nhưng sao còn gần gũi. Tâm sự chúng ta đôi khi
khác nhau nhưng vẫn cùng mẫu số. Mẫu số của một thời đại lưu vong.
Có lẽ trong những nhà thơ, Du Tử Lê là người có duyên với các nhạc sĩ nhất cũng
như thi sĩ Đinh Hùng thời trước. Gần một trăm bài thơ được phổ nhạc với rất
nhiều ca khúc gần như “bất tử“ phải là một hiện tượng trong đời sống văn học
Việt Nam.
Nhà văn Mai Thảo đã viết về người bạn tâm giao của mình với dẫn chứng từ những
tài năng âm nhạc khả tín:
“… Trên một tầm cao hơn, thuần túy nhạc lý và nhạc tính hơn, những điểm xuất
sắc của cõi nhạc, nét nhạc Phạm Đình Chương cũng được những kiến thức có thẩm
quyền hết lời khen ngợi. Như một nhận xét tổng quát của nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi.
Là đường nét của âm điệu (ligne melodique) cách thế hòa âm, tiết điệu và bố cục
từ khúc, mặt nào ở Phạm Đình Chương cũng cao sang, điêu luyện và thuần phục.
Cao và sang nhưng không khó không xa rất hợp rất gần với tâm hồn đại chúng. Như
một phân tích tóm gọn của nhạc sĩ Lê trọng Nguyễn.
Là Phạm Đình Chương xử dụng ngũ cung tài giỏi, cấu trúc và kỹ thuật nhạc hiện
đại, tiền tiến nhưng vẫn giữ dược âm điệu, yếu tính (essence) và tâm hồn Việt Nam… “
Riêng tôi, qua hơn sáu chục ca khúc cho một khoảng hơn bốn mươi lăm năm sáng
tác, tôi đã nhìn thấy rõ một vóc dáng nhạc sĩ lớn. Là người ngợi ca tình yêu,
với những ca khúc để đời : Mộng Dưới Hoa, Ngợi Ca Tình Yêu, Người Đi Qua Đời
Tôi, Mầu Kỷ Niệm... Là người yêu quê hương, tin tưởng vào tương lai dân tộc,
với Tiếng Dân Chài, với Được Mùa, với trường ca Hội Trùng Dương, … Là người lưu
lạc tha hương, nhớ về chốn cũ nhà xưa, với Mưa Saigòn, Mưa Hà Nội, với Đêm, Nhớ
Trăng Saigòn, với Khi Tôi Chết Hãy Mang Tôi ra Biển, … Là người nhạc sĩ yêu đời
mang nghững bài ca tươi thắm với Sáng Rừng, với Trăng Rừng, với Ra Đi Khi Trời
Vừa Sáng, … Tất cả, thành một vóc dáng âm nhạc đa diện. Ở mặt nào, cũng là đặc
sắc. Ở cõi nào, cũng là khai phá bước chân. Mỗi mỗi, là những hiển lộng nghệ
thuật. , những dụng công tinh vi. Aâm nhạc và đời sống có những bổ túc để thành
một nhất quán cho sáng tác.
Dù nhạc sĩ đã qua đời vào năm 1991, nhưng tuổi thọ của những ca khúc hầu như bất tử sẽ còn dài hơn rất nhiều 62 tuổi hưởng thọ. Đã có những chương trình hát và tưởng niệm cố nhạc sĩ. Đã có những ca khúc được trình bày như một cách thế cảm tạ những công trình mà có người gọi là những bông hoa tô điểm cho đời.
Ngày trước, cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã than thở rằng “bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như”. Bây giờ, với những cõi nhạc như Phạm Đình Chương, có lẽ đến vài thế kỷ sau vẫn còn đồng vọng những ca khúc như Hội Trùng Dương hay Mộng Dưới Hoa chăng? Có thể lắm chứ sao không? Đã gần nửa thế kỷ rồi mà lời nhạc vẫn xanh và bóng mát vẫn tỏa cùng trên quê hương mà âm điệu còn vang xa ra trên phần đất mà con dân Việt nam sinh sống trên toàn thế giới !!!
Tin mới
Các tin khác
© NongLamSucTayNinh.com 2011 - 2020. Thiết kế website tại MtStudio.vn
Thành lập ngày 20 tháng 02 năm 2011
Email: nonglamsuctayninh@gmail.com