Ai về Tha La xóm đạo
Tha La là một địa danh đẹp về thắng cảnh thiên nhiên và đẹp vì tình người trongtiềm thức của tôi. Thật vậy, tên Tha La chỉ cho ta ý nghĩa tượng hình ra một họđạo tại đất Tha La này. Chính vì mật độ dân cư không nhiều chỉ vào khoảng 3,000người trước năm 1975, người ta không tìm thấy Tha La trong bản đồ địa lý hayhành chánh. Đây là xóm đạo thuộc Xã An Hoà Quận Trảng Bàng được tổ chức khángăn nắp và qui củ, nhà cửa khang trang, quây quần chung quanh ngôi thánhđường. Trải qua bao thăng trầm của chiến tranh tàn phá, nhà thờ đã được trùngtu lại. Cho tới năm1967 thì việc sửa sang được hoàn tất. Chánh toà nằm giữa vớitường gạch bao quanh, với sân rộng lót đá, với trường học và nhiều cơ sở phụthuộc. Ngôi Chánh toà đồ sộ có phần nguy nga, hai mái ngói xoải dài xuống thấpcó sức chứa chừng 400 con người ngoan đạo trong các buổi hành lễ. Tượng Đức Mẹtrước mặt, và có một hang đá khổng lồ nằm bên hông, tháp chuông không cao nhưngcó kiến trúc lạ mắt như cái lồng chim. Toàn bộ khu nhà thờ, nhìn chung, với lốikiến trúc đơn giản, không mang nặng nét cổ điển của Tây phương, nhưng lại đượcbao bọc xung quanh bằng những tàn cây cổ thụ cao to cho bóng mát, mang vẻ uhoài, thanh tịnh như một ngôi chuà cổ của một miền quê.
Theo sách Tây Ninh Xưa và Nay của tác giả Huỳnh Minh, xuất bản năm 1972và được tái ấn bản tại Úc năm 1992 thì vào cuối thời Minh Mạng, khoảng1840, có một nhóm giáo dân độ vài chục gia đình được cha Cosimo Trí dìu dắt,chạy nạn tới khu rừng Tha La, khai quang lập ấp xây dựng cuộc sống, đồng thờicố gắng bảo tồn gốc đạo và niềm tin. Để tránh sự theo dõi và phát giác của viênchức triều Nguyễn đang ở thời kỳ e ngại đạo ngoại lai khiến bị theo dõi, nhữngbuổi lễ thường phải lưu động. Một tàn cây cổ thụ, một mái lá đơn sơ, hoặc túp liềutranh ủ dột cũng mang đủ ý nghĩa và mang tính chất của cái nhà thờ. Nhiều lúcphải làm lễ ban đêm. Khắp vùng xã An Hoà xưa hầu như đều có dấu chân của conChúa. Cha chủ chiên Cosimo Trí đã thấp một ngọn nến giữa rừng âm u, vừa khaihoang lập ấp vừa ẩn náu, vừa mưu sinh, vừa khai sáng nguồn suối tâm linh tươimát cho các con chiên, để nó trôi chảy cho đến ngày hôm nay. Nếu triều đình cólệ phong thần cho những vị có công khai làng mở mang bờ cõi thì chính cha Trícũng là vị rất xứng đáng được phong Thánh Hoàng bổn cảnh của dân chúng An Hoà.
Sau năm 1863, khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Nam Nam kỳ thì hoàn cảnh thuận tiệnhơn. Việc truyền đạo Chúa được nhà cầm quyền Pháp khuyến khích và giúp đỡ. Giáodân gom tụ lại Tha La đông hơn và họ đạo Tha La được chính thức thành lập, trựcthuộc Toà Thánh La Mã. Nhà thờ có nơi cố định, đầu tiên được xây cất, với vậtliệu đơn sơ. Từ điểm nầy, các vị cha tiếp nối đi đến các địa phương khác đểtruyền đạo và lập thêm xứ đạo mới. Ngày nay ở Tây Ninh, đạo Công Giáo vẫn pháttriển song hành với các tôn giáo khác. Đi đâu cũng thấy nhà thờ, ngay cả vùngthánh địa Cao Đài cũng có.
Vì nhờ sự cho phép của người Pháp họ đạo Tha La phát triển ngày càng mạnh mẽ vàvững vàng. Vào đầu thế kỷ 20 nhà thờ được xây cất qui mô hơn. Tuy vậy ngườiCông Giáo Tha La không quay lưng lại với dân tộc. Chúng ta không đủ tài liệu đểbiết Tha La có tham gia phong trào Cần Vương và Văn Thân chống Pháp hay không,nhưng chắc chắn vào mùa Thu năm 1945, thanh niên Tha La, nhất là thành phần tríthức đã tích cực tham gia phong trào kháng chiến ở đất Nam Kỳ. Và chính thờiđiểm nầy, nhà thơ Vũ Anh Khanh cũng gia nhập đi theo phong trào kháng chiến,ông đã làm bài thơ để đời, trong đó có những câu cho thấy rằng người Tha La đãđặt tình yêu quê hương tổ quốc lên trên hết:
"Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng
Ngày hiu quạnh. ờ...Ơ...Hơ... Tiếng hát,
Buồn như gió lượn, lạnh dài đôi khúc nhạc.
Tiếng hát rằng:
Tha La hận quốc thù,
Tha La buồn tiếng kiếm.
Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh..."
Như đã trích đoạn thơ ở phần trên, bài thơ "Tha La" của tác giả VũAnh Khanh, dài 93 câu, được in trong phần mở đầu của cuốn truyện dài có tên" Nửa Bồ Xương Khô", dày hơn 500 trang cũng của chính ông, ghi lạimột số hình ảnh hào hùng khi tác giả đi kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -1954). Sách xuất bản khoảng đầu thập niên 50.Có lẽ nói không ngoa trong văn họckhi nói về đất Tha La, ta không thể bỏ quên bài thơ lịch sử của người Tha La VũAnh Khanh. Hồn thơ của ông ấp ủ những tình tự về Tha La, những nỗi lòng của ThaLa và những dòng văn chương do chính người Tha La ghi tạc vào bia đá văn họcViệt Nam. Nào, ta hãy lắng nghe tâm tình của Vũ Anh Khanh:
"- Đây Tha La xóm đạo,
Có trái ngọt, cây lành.
Tôi về thăm một dạo,
Giữa mùa nắng vàng hanh,
Ngậm ngùi, Tha La bảo:
- Đây rừng xanh, rừng xanh,
Bụi đùn quanh ngõ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh,
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.
Viễn khách ơi! Hãy dừng chân cho hỏi
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng
Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng.
Có trái ngọt, cây lành im bóng lá,
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ
Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
Về chi đây! Khách hỡi! Có ai chờ?
Ai đưa đón?
- Xin thưa, tôi lạc bước!
Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu!
Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
Tìm hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ.
Nghìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió
Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng.
Nhìn hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng
Tha La hỏi: - Khách buồn nơi đây vắng?
- Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng!
- Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?
Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn.
Gió vun vút, gió rợn rùng, gió rít,
Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà
Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa
Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh
Khách rùng mình, ngẩn ngơ người hiu quạnh
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách.
Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch.
Gặp cụ già đang ngắm gió bâng khuâng
Đang đón mây xa... Khách bỗng ngại ngần:
- Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng?
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng,
Nhẹ bảo chàng: "Em chẳng biết gì ư?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!
Người nước Việt ra đi vì nước Việt
Tha La vắng vì Tha La đã biết,
Thương giống nòi, đau đất nước lầm than".
***
Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng
Ngày hiu quạnh. ờ...Ơ...Hơ... Tiếng hát,
Buồn như gió lượn, lạnh dài đôi khúc nhạc.
Tiếng hát rằng:
Tha La hận quốc thù,
Tha La buồn tiếng kiếm.
Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh
ờ... Ơ... Hơ... Có một đám Chiên lành
Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy
Quỳ cạnh chúa, đám Chiên lành run rẩy:
- Lạy đức Thánh Cha!
Lạy đức Thánh Mẹ!
Lạy đức Thánh Thần
Chúng con xin về cõi tục để làm dân...
Rồi... cởi trả áo tu,
Rồi... xếp kinh cầu nguyện
Rồi... nhẹ bước trở về trần...
Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
Người hãy ngừng chân,
Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ
Trời Tha La vần vũ đám mây tang,
Vui gì đâu mà tâm sự?
Buồn làm chi cho bẽ bàng!
ờ... Ơ... Hơ...ờ... ơ Hơ... Tiếng hát;
Rung lành lạnh, ngân trầm đôi khúc nhạc,
Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi!
Tha La thương người viễn khách quá đi thôi!
***
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ.
Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay...
Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
- Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
Hãy về thăm xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tha La dâng ngàn hoa gạo
Và suối mát rừng xanh
Xem đám Chiên hiền thương áo trắng
Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh..."
(trích:Việt Hải)
Tin mới
Các tin khác
© NongLamSucTayNinh.com 2011 - 2020. Thiết kế website tại MtStudio.vn
Thành lập ngày 20 tháng 02 năm 2011
Email: nonglamsuctayninh@gmail.com